Giá tiêu hôm nay (16/11) được ghi nhận trong khoảng 67.500 – 70.500 đồng/kg sau khi tăng nhẹ tại các tỉnh trọng điểm trong nước.
Giá tiêu trong nước
Theo khảo sát, giá tiêu tại thị trường nội địa tăng từ 500 đồng/kg đến 1.000 đồng/kg lên khoảng 67.500 – 70.500 đồng/kg.
Cụ thể, Gia Lai và Đồng Nai lần lượt tăng 1.000 đồng/kg và 500 đồng/kg lên cùng mức là 67.500 đồng/kg.
Song song đó, hai tỉnh tại Đắk Lắk và Đắk Nông cũng điều chỉnh giá cùng tăng 1.000 đồng/kg, hiện đang thu mua hồ tiêu với mức giá là 68.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu hiện được ghi nhận tại mức tương ứng là 69.500 đồng/kg và 70.500 đồng/kg, cùng tăng 500 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg) |
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg) |
Đắk Lắk |
68.500 |
+1.000 |
Gia Lai |
67.500 |
+1.000 |
Đắk Nông |
68.500 |
+1.000 |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
70.500 |
+500 |
Bình Phước |
69.500 |
+500 |
Đồng Nai |
67.500 |
+500 |

Giá tiêu thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 15/11 (theo giờ địa phương), giá tiêu đen Lampung (Indonesia) tăng 1,24% so với ngày 14/11.
Song song đó, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 và tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn duy trì ổn định.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 14/11 |
Ngày 15/11 |
% thay đổi |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
4.077 |
4.128 |
1,24 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
3.450 |
3.450 |
0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
4.900 |
4.900 |
0 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok tăng 1,25% so với phiên hôm trước, trong khi giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh mới.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 14/11 |
Ngày 15/11 |
% thay đổi |
|
Tiêu trắng Muntok |
6.177 |
6.255 |
1,25 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
7.300 |
7.300 |
0 |
Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong các tháng đầu năm 2023, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới giảm nhập khẩu hạt tiêu do nhu cầu tiêu thụ thấp.
Kinh tế suy thoái, lạm phát duy trì mức cao dai dẳng, căng thẳng địa chính trị được cho là nguyên nhân khiến nhu cầu tiêu thụ hạt tiêu các tháng cuối năm nay sẽ chưa cải thiện.
Theo Eurostat, EU nhập khẩu hạt tiêu từ thế giới trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt 200,52 triệu EUR (tương đương 211,7 triệu USD), giảm 25,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xu hướng giảm tiếp tục diễn ra trong tháng 7/2023, giảm 16,8% so với tháng 7/2022, đạt 34,8 triệu EUR (tương đương 36,7 triệu USD).
Trong đó, EU giảm mạnh nhập khẩu hạt tiêu từ Việt Nam. Thị phần hạt tiêu của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU từ thế giới chiếm 30,05% trong 6 tháng đầu năm 2023 và chiếm 31,39% trong tháng 7/2023.
Theo Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ, 6 tháng đầu năm 2023, nước này nhập khẩu hạt tiêu từ thế giới đạt 155,6 triệu USD, giảm 30,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xu hướng giảm nhập khẩu tiếp tục diễn ra trong các tháng 7 và 8, mức giảm lần lượt 28,2% và 38,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhìn chung, thị trường hạt tiêu thế giới vẫn sẽ đối mặt với khó khăn trong quý IV/2023 do nhu cầu tiêu thụ thấp tại các nền kinh tế lớn như EU, Mỹ, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc…
Kinh tế khó khăn, lạm phát vẫn ở mức cao, căng thẳng địa chính trị kéo dài được cho là nguyên nhân khiến nhu cầu tiêu thụ hạt tiêu giảm.