Đây là nhận định của các chuyên gia tại Hội thảo “Phát huy giá trị nguồn lợi từ rừng gắn với mục tiêu Net-Zero và phát triển bền vững”, do Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 24/9, tại Hà Nội.
Việt Nam hiện có 14,8 triệu ha rừng và đặt mục tiêu duy trì tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc ổn định từ 42 – 43% đến năm 2030. Dự kiến, mỗi năm, cả nước sẽ trồng thêm khoảng 238.000 hecta rừng và tìm cách phục hồi rừng tự nhiên để chống biến đổi khí hậu.
Bảo vệ rừng là nhiệm vụ then chốt để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu đạt Net-Zero vào năm 2050. Theo ông Hà Công Tuấn, Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP 26, ngành Nông nghiệp phải đảm bảo tăng hấp thụ từ rừng, và đóng góp 70% kết quả giảm phát thải khí nhà kính cho Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Như vậy, còn 30% có thể đưa vào thị trường tín chỉ các-bon.
Ông Hà Công Tuấn, Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phát biểu tại hội thảo
Theo số liệu từ Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, giai đoạn 2011 – 2018, bình quân rừng Việt Nam giảm phát thải khí nhà kính đạt 18,3 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ)/năm do ngăn ngừa suy thoái và mất rừng. Cùng với đó, phát triển rừng tăng cả diện tích và chất lượng giúp tăng hấp thụ bình quân khoảng 38,5 triệu tấn CO2tđ. Như vậy, tổng cộng cả hấp thụ và phát thải ròng từ rừng đạt 56,8 triệu tấn CO2 tđ.
Sắp tới, dư địa tăng diện tích rừng không còn nhiều. Đầu tháng 9, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch lâm nghiệp Quốc gia và theo đó, diện tích rừng đến năm 2030 khoảng 15,8 triệu ha – chiếm gần 1 nửa diện tích đất nước. Cần nhấn mạnh rằng, tiềm năng tăng tăng chất lượng rừng còn rất lớn. Nhiệm vụ thời gian tới là tăng chất lượng rừng để tăng bể chứa các-bon, tăng giá trị dịch vụ môi trường rừng. Mật độ các-bon chứa trong các loại rừng khác nhau sẽ khác nhau, và rõ ràng, còn rất nhiều diện tích rừng nghèo, rừng trung bình có thể được cải thiện.
“Theo số liệu như trên, 30% trữ lượng các-bon rừng tương đương mỗi năm, Việt Nam còn khoảng 17 triệu tín chỉ các-bon có thể đưa vào thị trường các-bon cả trong nước và quốc tế” – ông Hà Công Tuấn nhấn mạnh và cho rằng, đây là nguồn tài chính lâm nghiệp có giá trị rất lớn. Lượng tín chỉ các-bon rừng được trao đổi với Ngân hàng Thế giới từ Chương trình giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERP) vừa qua chưa thấm vào đâu. “Nguồn hàng” vẫn còn nhưng chưa giao dịch được, trong khi nhu cầu hiện nay khá lớn.
Bà Hoàng Thị Liên – Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam tham gia phiên thảo luận “Phát huy hiệu quả giá trị nguồn lợi từ rừng: Kinh nghiệm thực tiễn từ các dự án phát triển và vai trò của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng trong phát triển rừng bền vững”
Tín chỉ các-bon là loại hàng hóa có tính chất đặc biệt và theo đó, giá tín chỉ cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó có thể là loại hình dự án hình thành nên tín chỉ; tiêu chí xác định lượng phát thải khí nhà kính của các đơn vị phát hành tín chỉ, địa điểm giao dịch… Cá biệt có loại tín chỉ có giá lên tới 200 USD/tín chỉ, do trong kết cấu giá đã bao gồm đồng lợi ích tại khu vực tạo tín chỉ.
TS. Chử Văn Lâm, Phó Chủ tịch thường trực, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế Việt Nam chia sẻ: Hiện nay, phát triển rừng theo hướng đa giá trị là xu hướng được Việt Nam đẩy mạnh. Theo đó, ngoài các giá trị trực tiếp từ gỗ, lâm sản ngoài gỗ và thủy điện (hiện mới chiếm khoảng 15% giá trị của hệ sinh thái rừng), nguồn lợi lớn khác đến từ rừng chính là các sản phẩm phi lâm sản và dịch vụ. Trong đó, phát triển thị trường carbon rừng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Điều này được thể hiện rõ trong Đề án phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng đến năm 2030, tầm nhìn 2050 được Chính phủ phê duyệt đầu năm 2024.
“Theo đó, các giá trị nguồn lợi từ rừng cần được khai thác, phát huy hiệu quả và bền vững hơn nữa nhằm đáp ứng các yêu cầu mới cũng như hướng tới các mục tiêu net zero mà Việt Nam đã cam kết,” TS. Chử Văn Lâm khẳng định.
Ông Nguyễn Việt Dũng – Giám đốc Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại hội thảo
Theo bà Nghiêm Phương Thúy, đại diện Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), 2 dự ân các-bon lâm nghiệp đang được triển khai là Chương trình giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERP) và Thỏa thuận mua bán giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Các tiêu chuẩn tín chỉ khác nhau, nhưng chủ yếu nguồn tín chỉ đến từ kết quả giảm phát thải khí nhà kính nhờ bảo vệ rừng. Còn tín chỉ từ nguồn hấp thụ khí nhà kính qua hoạt động trồng rừng bổ sung, khoanh nuôi, tái sinh rừng hầu như không đáng kể. Nguyên nhân do các quy định xác định tín chỉ rất ngặt nghèo và các diện tích rừng trồng của Việt Nam đều khó đáp ứng tiêu chuẩn.
Về định hướng trong thời gian tới, bà Nghiêm Phương Thúy chia sẻ, ngành lâm nghiệp sẽ tục triển khai các chương trình giảm phát thải và nghiên cứu thí điểm tín chỉ các-bon có chất lượng cao (các-bon xanh…); tăng cường truyền thông, tập huấn kỹ thuật, đặc biệt về kiểm kê khí nhà kính, báo cáo kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và xây dựng cơ sở dữ liệu.
Bên cạnh đó, thể chế chính sách về chuyển nhượng và quản lý tài chính nguồn thu từ tín chỉ các bon rừng sẽ tiếp tục được hoàn thiện; xác định rõ tiêu chuẩn các bon rừng Việt Nam và cơ chế vận hành, hướng dẫn xây dựng và triển khai thí điểm một số dự án có tiềm năng. Huy động nguồn lực trực tiếp và gián tiếp hỗ trợ các bên liên quan…
Tại hội thảo, đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính và đại diện khối tư nhân đã chia sẻ về cơ sở pháp lý và các chính sách của Việt Nam về quản lý, phát triển và khai thác các nguồn lợi từ rừng. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang tiến hành lấy ý kiến sửa đổi Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầngmozon. Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06 là cần thiết để triển khai hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, phát triển thị trường các-bon và bảo vệ tầng ô-dôn, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam chuẩn bị thiết lập và vận hành sàn giao dịch tín các-bon.
Trong khuôn khổ hội thảo cũng đã diễn ra 2 phiên thảo luận: “Phát huy hiệu quả giá trị nguồn lợi từ rừng: Kinh nghiệm thực tiễn từ các dự án phát triển và vai trò của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng trong phát triển rừng bền vững” và “Thị trường tín chỉ carbon và tiềm năng phát triển tín chỉ carbon rừng”. Tại đây, đại diện các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, quỹ đầu tư đã đề xuất các giải pháp thảo gỡ khó khăn, thúc đẩy đầu tư tư nhân vào lĩnh vực lâm nghiệp hướng đến tạo tín chỉ carbon rừng.