Giá tiêu hôm nay (12/7) vẫn ổn định trong khoảng 67.500 – 70.500 đồng/kg tại thị trường nội địa.
Giá tiêu trong nước
Theo khảo sát, giá tiêu không có biến động mới so với hôm qua, hiện đang nằm trong phạm vi 67.500 – 70.500 đồng/kg tại thị trường trong nước.
Hiện tại, hai tỉnh Gia Lai và Đồng Nai đang ghi nhận mức giá lần lượt là 67.500 đồng/kg và 68.000 đồng/kg.
Hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông cũng duy trì thu mua hồ tiêu với cùng mức giá 68.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu đi ngang tại mức tương ứng là 69.500 đồng/kg và 70.500 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg) |
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg) |
Đắk Lắk |
68.500 |
– |
Gia Lai |
67.500 |
– |
Đắk Nông |
68.500 |
– |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
70.500 |
– |
Bình Phước |
69.500 |
– |
Đồng Nai |
68.000 |
– |
Giá tiêu thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) ngày 11/7 (theo giờ địa phương), giá tiêu thế giới so với ngày 10/7 như sau:
– Tiêu đen Lampung (Indonesia): ở mức 3.694 USD/tấn, tăng 0,19%
– Tiêu đen Brazil ASTA 570: ở mức 2.950 USD/tấn, không đổi
– Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA: ở mức 4.900 USD/tấn, không đổi
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 10/7 |
Ngày 11/7 |
% thay đổi |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
3.687 |
3.694 |
0,19 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
2.950 |
2.950 |
0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
4.900 |
4.900 |
0 |
– Tiêu trắng Muntok: ở mức 6.395 USD/tấn, tăng 0,19%
– Tiêu trắng Malaysia ASTA: ở mức 7.300 USD/tấn, không đổi
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 10/7 |
Ngày 11/7 |
% thay đổi |
|
Tiêu trắng Muntok |
6.383 |
6.395 |
0,19 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
7.300 |
7.300 |
0 |
Tiếp tục xu hướng giảm từ năm ngoái, nhập khẩu hồ tiêu của Mỹ trong những tháng đầu năm nay chậm lại do nhu cầu tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi lạm phát và lãi suất tăng cao.
Trong tháng 4 nhập khẩu hồ tiêu của Mỹ đạt 6.030 tấn, tăng 27% so với tháng trước nhưng giảm tới 31,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Do đó, tính chung 4 tháng đầu năm, nhập khẩu tiêu của thị trường này đã giảm 21,9% về lượng (6.279 tấn) và giảm 19,3% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 16.361 tấn, trị giá 79 triệu USD, số liệu từ Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC).
Trong đó, Mỹ giảm nhập khẩu hồ tiêu từ tất cả các thị trường cung cấp chính trong 4 tháng đầu năm nay gồm Việt Nam giảm 15,8% (đạt 17.829 tấn); Ấn Độ giảm 15,7% (đạt 1.869 tấn); Indonesia giảm 47,1% (đạt 956 tấn); Brazil giảm 70,1% (đạt 695 tấn)…
Song song đó, tình hình lạm phát đã đẩy lãi suất lên cao và để giảm chi phí tài chính, các công ty đang giảm hàng tồn kho.
Ngoài ra, chi phí và thời gian vận chuyển đã trở về mức bình thường trước đại dịch, do đó các nhà nhập khẩu không còn phải giữ hàng tồn kho lớn hơn nữa.